- Đối với ao ương và lưu giữ giống
qua đông, chọn ao kín gió, có diện tích từ 300 - 500m2, ao có hình
chữ nhật, hướng Bắc - Nam. Có nguồn nước sạch, cấp và thoát nước dễ dàng, dễ
gây màu, chất đáy tốt. Bờ ao phải chắc chắn, không để bờ ao rò rỉ mất nước làm
ao cạn, phải luôn giữ mực nước trong ao trên 1,5m, tốt nhất là từ 2 - 2,5m. Các
yếu tố thuỷ lý, thuỷ hoá ao nuôi phù hợp với sự phát triển của các đối tượng
nuôi: pH >7, Oxy hoà tan > 5mg/l.
- Tăng cường chăm sóc vào những ngày
thời tiết thuận lợi, bổ sung thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao, định kỳ trộn
vitamin C và khoáng chất vào thành phần thức ăn để tăng khả năng chống chịu với
thời tiết lạnh kéo dài. Ngoài ra, cần định kỳ dùng các chế phẩm sinh học để
quản lý chất lượng nước và phòng bệnh cho thủy sản.
2. Đối
với hoạt động Nuôi thủy sản thương phẩm
- Thủy sản nuôi
đã đạt kích cỡ thương phẩm cần có phương án thu hoạch trước khi bước vào mùa
đông để hạn chế thiệt hại khi xuất hiện thời tiết cực đoan (rét đậm, rét hại),
đặc biệt là các loài thủy sản có khả năng chống chịu rét kém như cá rô phi, cá
chim trắng, cá lóc, ba ba, cá vược, cá chim vây vàng...
- Đối với thủy
sản nuôi chưa đạt kích cỡ thương phẩm: Người nuôi cần theo dõi diễn biến tình
hình thời tiết, đối với những ngày thời tiết diễn ra các đợt rét đậm, rét hại
cần chủ động áp dụng các biện pháp kỹ thuật phòng chống rét cho con nuôi thủy sản
như sau:
Hạn chế các hoạt động gây sốc/stress cho thủy
sản như: kéo lưới, đánh bắt, vận chuyển…để tránh làm cá yếu và giảm nguy cơ
nhiễm bệnh tác nhân cơ hội. Duy trì mực
nước ao/bể nuôi đảm bảo độ sâu 1,5 - 2,0 m, mực nước khu vực lồng nuôi từ 2,0 –
3,0 m nhằm ổn định và tránh biến động đột ngột nhiệt độ nước nuôi. Di chuyển
lồng bè đến khu vực ít gió. Với các cơ sở nuôi tôm vụ đông, ngoài duy trì mực
nước trong ao/bể phù hợp cần có các biện pháp chống rét như nhà bạt che phủ ao
nuôi, hệ thống quạt nước, sục khí, trang thiết bị phụ trợ đồng bộ, đảm bảo tôm
có thể sinh trưởng phát triển được khi nhiệt độ bên ngoài môi trường xuống dưới
15oC.
Đảm bảo cung cấp đầy đủ, sử dụng thức ăn có
chất lượng cao, bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng. Tính toán lượng thức ăn
phù hợp để tránh dư thừa gây ảnh hưởng đến chất lượng nước ao nuôi. Khi nhiệt
độ nước ao nuôi xuống dưới 150C thì ngừng cho ăn, tranh thủ các thời
điểm nắng ấm trong ngày để cho cá ăn.
Định kỳ dùng CaO bón xuống ao nuôi 2-3 kg/100
m3 nước hoặc một số hóa chất được phép sử dụng trong nuôi thủy sản
(như TCCA, BKC, Chlorine...) theo liều lượng hướng dẫn của nhà sản xuất để khử
trùng nước ao/bể nuôi, phòng bệnh cho thủy sản nuôi. Riêng đối với lồng nuôi,
treo túi vôi hoặc hóa chất khử trùng ở đầu dòng chảy để khử trùng nước, phòng
bệnh cho thủy sản nuôi.
Đối với ruộng nuôi cá lúa: Đảm
bảo mức nước trong ruộng nuôi trên 1,5m. Có thể tạo các sọt rơm làm nơi tránh
rét cho thủy sản bằng cách tạo một góc ruộng nuôi sâu về phía Bắc, dùng các sọt
đan bằng tre lấy rơm rạ dùng nước vôi phun vào sát trùng, phơi thật khô ấn đầy
vào sọt, cắm cọc đơm sọt xuống đáy ao. Đặc biệt lưu ý, sau khoảng 10 – 15 ngày
rơm rạ bị phân hủy, cần vớt bỏ tránh gây ô nhiễm môi trường ruộng nuôi.
Đối với các đối tượng thủy đặc
sản (lươn, chạch, ếch): Làm hang trú ẩn bằng đất hoặc dùng các ống nhựa, ống
tre, có một đầu rỗng, chiều dài ống 0,5 - 0,6m, đường kính 0,15 - 0,16m, bó
thành từng bó để thủy sản chui vào trú ẩn. Ống đặt ở góc hoặc thành bờ ao, trên
ống dùng rơm rạ phủ để chắn gió. Nếu nuôi trong bể xi măng dùng bạt hoặc túi
nilon phủ kín mặt bể tránh rét cho thủy sản.
Vùng nuôi Ngao: Tăng cường kiểm
tra bãi ngao, khi thủy triều rút kịp thời vệ sinh mặt bãi, đăng chắn, loại bỏ
rác và xác động vật chết tránh ô nhiễm môi trường, tạo sự thông thoáng, làm
giàu nguồn thức ăn cho ngao. San phẳng đáy tại bãi ngao, khai thông các vùng
nước đọng nhằm tránh hiện tượng ứ đọng nước cục bộ kéo dài, độ mặn > 28%o
gây ảnh hưởng tới sinh trưởng của ngao nuôi. Không nên thả ngao giống vào thời
điểm thời tiết không thuận lợi, duy trì mật độ nuôi phù hợp: mật độ nuôi
180-200 con/m2 đối với cỡ giống thả nuôi 400-600 con/kg; dưới 250
con/m2 đối với cỡ nuôi từ 500-800 con/kg; 250-350 con/m2
đối với cỡ giống từ 800-2.000 con/kg.
Thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết,
tình trạng sức khỏe thủy sản nuôi và các yếu tố môi trường nhằm phát hiện kịp
thời các hiện tượng bất thường để có biện pháp xử lý phù hợp. Nếu phát hiện
hiện tượng thuỷ sản bị chết bất thường cần báo ngay cho cơ quan chức năng để có
biện pháp xử lý kịp thời, ngăn chặn nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Phối hợp thống
kê chính xác diện tích, mức độ thiệt hại để làm cơ sở đề xuất hỗ trợ cho người
dân khôi phục sản xuất theo quy định./.