GIỚI THIỆU ĐIỂM VĂN HÓA TÂM LINH - DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP TỈNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ GIA PHÚ
Gia Phú là xã đồng
chiêm trũng nằm ở phía Tây bắc của huyện Gia Viễn, phía bắc giáp xã Liên Sơn, phía Đông giáp Gia Thịnh và
thị trấn Me, phía Tây giáp sông Hoàng Long.
Tổng diện tích đất tự
nhiên xã Gia Phú là 655 ha, trong đó đất
nông nghiệp là 329,55 ha chiếm 50,3%, đất phi nông nghiệp 325,45 ha chiếm 49,7%, toàn
xã được phân thành 7 thôn xóm với 2024 hộ, 7.300 khẩu, 03 HTXNN, 11 chi bộ. Xã có
hệ thống cơ sở hạ tầng, khu
trung tâm xã, trường học, Trạm y tế được đầu tư xây dựng theo quy hoạch, có tuyến đường giao thông liên tỉnh đi qua
với chiều dài khoảng 3km, có nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn, thuận
tiện cho việc phát triển kinh tế xã hội nhất là các ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp.
Là xã có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu
đời, nhân dân có truyền thống cần cù lao động; anh dũng trong đấu tranh chống
chống giặc ngoại xâm; sáng tạo và thông minh trong xây dựng quê hương đất
nước. Các nếp sống văn hóa ngày càng được củng cố; sinh hoạt, phong tục
tập quán truyền thống tốt đẹp vẫn được nhân dân bảo tồn và phát triển.
Trong những năm qua, xã Gia Phú luôn duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế đạt khá, toàn Đảng, toàn dân tích cực tham gia xây dựng và
nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới; Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” được tích cực triển khai, thực hiện,
thu hút nguồn lực và đầu tư, đạt kết quả khá; văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ,
an sinh xã hội được chú trọng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được đảm
bảo; phát huy truyền
thống quê hương, Đảng bộ và nhân dân Gia Phú nỗ lực hết mình, đoàn kết, đồng
lòng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của địa
phương. Kinh tế phát triển ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng lên,
các tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao từng bước được củng cố và hoàn thiện,
trong đó có việc xây dựng và quảng bá hình ảnh du lịch trên địa bàn xã.
Trong thời
đại ngày nay, Du lịch trở thành hiện tượng phổ biến và là một trong những ngành
công nghiệp lớn nhất thế giới. Nhờ những đóng góp to lớn về kinh tế-xã hội, du
lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du
lịch là một trong những hoạt động kinh tế quan trọng, không chỉ đem lại nguồn
thu nhập lớn cho nền kinh tế, tạo nhiều việc làm, phát triển các ngành dịch vụ,
cơ sở hạ tầng mà còn là phương tiện thúc đẩy hoà bình, giao lưu văn hoá,
tạo ra những giá trị vô hình nhưng bền chặt. Như vậy, có thể nói du lịch là một
trong những hoạt động quan trọng đầu tiên hướng tới xây dựng và phát triển
thương hiệu cho địa phương cũng như quốc gia. Vì vậy, luôn có hai mục tiêu song
trùng đối với ngành du lịch, đó là quảng bá du lịch góp phần xây dựng thương
hiệu và xây dựng một thương hiệu du lịch quốc gia.
Hiện nay trên địa bàn xã Gia Phú có 6
cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh như Miếu thôn Làng, Đền Thượng, Đền Đoan Bình, Đền
Kính Chúc, Đình Ngô Đồng, Đình Kính Chúc. Đây là các điểm văn hóa tâm linh nhắc
nhở, giáo dục các thế hệ sau ghi nhớ về dấu ấn lịch sử quan trọng cũng như
truyền thống yêu nước của ông cha ta từ đời xưa để lại.
Di tích lịch sử Đình Kính Chúc
* Miếu Làng, là các gọi theo tên địa danh. Di tích nằm trên địa phần thôn Làng, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình

Di tích lịch sử Miếu thôn Làng
Miếu đựơc xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết
định số 449/QĐ-CT, ngày 8/10/2010 của UBND tỉnh Ninh Bình
Di tích Miếu làng hiện nằm ở thôn Ngô Đồng , xã Gia Phú, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình. Xã nằm về phía tây huyện Gia Viễn, phía Bắc giáp xã Liên
Sơn, phía Đông và phía Nam giáp xã Gia Thịnh, phía Tây giáp sông Hoàng Long.
Vùng đất Gia Phú hình thành khá sớm, từ trước thế kỷ thứ X có con
người sinh sống và lập nghiệp. Qua thời gian địa giới hành chính có sự thay đổi
như sau:
Thờ Hùng Vương thuộc đất giao nam, thời Tần thuộc đất Tượng Quận,
đến thời Tấn, Lương thuộc đất Giao Châu
Năm 669, thuộc huyện Nhu Viễn, sau đổi thành uy viễn. Thời Đinh
gọi là động Hoa Lư, thuốc Châu Đại Hoàng. Đầu thời Trần, Đại Hoàng đổi thành
Đại viễn, sau đổi thành Lê Gia và Uy viễn. Thời thuộc Minh, đổi thành Lê Gia
Thành Lê Bình cùng huyện Uy viễn thuộc Châu Trường Yên, phủ Kiến Bình. Từ thời
Lê đến nay, huyện có tên là Gia Viễn.
Năm 1982, di tích thuộc xã Ngô Đồng, tổng Liễu Đăng, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1924, di tích thuộc thôn Lại, xã Ngô Đồng, huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình.
Năm 1937, di tích thuộc xã Ngô Đồng, tổng Liên Huy, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1945- 1946, di tích thuộc thôn làng (THÔN HẠ), xã phượng
Hoàng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1949 di tích thuộc thôn Làng, Ngô Đồng, xã Gia Phú, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình
Măm 1976, hai tỉnh Ninh Bình và Hà Nam hợp nhất thành tỉnh Hà Nam
Ninh. Ngày 27/4/1977 hợp nhất huyện Gia Viễn với huyện Nho Quan thành huyện
Hoàng Long. Di tích thuộc thôn Ngô Đồng, xã Gia Phú, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà
Nam Ninh.
Năm 1981, tách huyện Hoàng Long thành 2 huyện Gia Viễn và Nho
Quan; tháng 4 năm 1992, tái lập tỉnh Ninh Bình. Từ đó đến nay di tích Miếu làng
thuộc thôn Ngô Đồng làng xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Di tích là nơi thờ cúng tưởng niệm vị thành Hoàng làng Đức Thánh
Hiển, người giúp đỡ, bảo vệ nhân dân trong việc lamg ăn sinh sống. Được nhân
dân tôn làm Thành Hoàng làng và được vua ban sắc phong.
Di tích là nơi tưởng niệm Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không, ông là một
thiền sư giỏi về phật pháp, pháp thuật, là người có công chữa bệnh cho vua Lý.
Ông được người Việt tôn sùng là Đức Thánh Hiền. Trong dân gian Thánh nguyễn
Minh Không còn được coi là một vị thánh trong tứ bất tử ở Việt Nam và là ông tổ
của nghề đúc đồng.
Miếu là nơi sinh hoạt văn hóa chung của cả làng, đó là nơi thể
hiện tình cảm, sự thành kính, biết ơn của dân làng đối với các vị tiền bối đã
có công với dân với nước. Đây là truyền thống quý báu của dân tộc ta về đạo lý
uống nước nhớ nguồn. Nối tiếp truyền thống tốt đẹp của những người đi trước,
thế hệ sau đã không ngừng học tập, góp một phần vào sự phát triển của đất nước
hiện nay.
Miếu được xây dựng theo kiểu “Tiền đao hậu đốc” với 2 gian thờ.
Lòng nhà có chiều dài 7,65m, rộng 4,40m. Hiên rộng 6,50m, dài 4,40m.
* Đền Thượng, là cách gọi theo tên địa danh. Di tích nằm trên địa phần thôn Thượng, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
Đền đựơc xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định
số 2953/QĐ-UBND, ngày 29/12/2005 của UBND tỉnh Ninh Bình
Theo truyền lại thì Đền Thượng được xây dựng từ rất lâu xong chưa
có cứ liệu khoa học xác định được cụ thể dựng từ thời nào. Di tích Đền Thượng
thôn Ngô Đồng ngoài việc thờ Đinh Quý Công, ở đây còn phối thờ Thánh Nguyễn
Minh Không và cập nhị giáp tiên linh. Di tích đã in đậm trong tâm tưởng người
đan là nơi thờ cúng, tưởng niệm vua Đinh ngay tại mảnh đất gắn với thời thơ ấu,
thủa cờ lau tập trận.
Tư liệu về vua Đinh từ thời phong kiến trước kia cho tới ngày
thống nhất đất nước hôm nay, đều đã được ghi lại. Âm hưởng chung là ca ngợi
công lao dẹp loạn, dựng quốc gia độc lập, ca ngợi sự tài giỏi xuất chúng từ
thủa ấu thơ cờ lau tập trận, nguồn dã sử từ xưa tới nay ở miền bắc lưu truyền
về vua đinh rất phong phú và đa dạng. Điều đáng quý là vùng đất có di tích này
còn rất nhiều truyền thuyết, địa danh liên quan đến thời thơ ấu chăn trâu tập
trận cờ lau của vua Đinh
Đền Thượng
Ngô Đồng là nơi tưởng niệm người anh hùng dân tộc Đinh Tiên Hoàng, ở vùng đất
ông tập trận cờ lau và gần căn cứ địa ban đầu dẹp loạn cát cứ. Từ lâu di tích
đã trở thành niềm tự hào của nhân dân Gia Phú riêng và của mọi người dân nói
chung.
Trong di tích còn lưu được một số di sản quý: Sắc phong, hoành
phi, câu đối, bài vị, ngai thờ...
* Đền Đoan Bình, là cách gọi theo tên địa danh. Di tích nằm trên địa phận xóm 5 thôn Đoan Bình, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
.

Di tích lịch sử Đền Đoan Bình
Di tích Đền Đoan Bình thờ Thành hoàng làng, Thạch tinh ngọc nương
công chúa và phối thờ Tam vị Tản Viên cùng gia tiên 6 dòng họ đến lập làng.
Di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số
2593/QĐ-UBND, ngày 29/12/2005 của UBND tỉnh Ninh Bình
Đền Đoan Bình nằm về phía Bắc của thôn Đoan Bình, sát ngay cạnh
Văn chỉ, tọa lạc trên mảnh đất rộng 2010m2 bằng phẳng và thoáng đãng.
Đền Đoan Bình là di tích thờ cúng thiên thần, điều độc đáo là phối
thờ nhị vị: Một vị là dương thần, một vị là âm thần. Sự linh ứng phù giúp quốc
thái dân an, trải qua nhiều biến cố thời gian, đã được các vua triều trước sắc
phong cho dân làng tứ mùa cúng tế.
Từ lâu di tích đã trở thành niềm tự hào của người dân Đoan Bình
nói riền và mọi người dân nói chung. Đền còn giữ nguyên vẹn nghệ thuật kiến trúc
thời Nguyễn, mang đậm nét kiến trúc dân tộc. Bên cạnh Đền là Văn chỉ thờ Khổng
Tử và bia đá lưu tên các vị đỗ đạt ở trong thôn. Đây là 1 cụm di tích cổ truyền
gớp phần vào việc giáo dục truyền thống lịch sử khuyến học của thôn Đoan Bình.
Trong di tích còn bảo lưu được nhiều di vật quý.
Đền Đoan Bình tọa lạc trên thửa đất rộng 2010m2 , nằm phía Bắc
thôn Đoan Bình, trước đền có Hồ bán nguyệt rộng gần 3 sào. Đền quay hướng Đông,
từ thôn Đoan Bình ra đền gần 100m, nằm sát cạnh văn chỉ của thôn ở giữa cánh đồng.
Tiếp giáp với Hồ bán nguyệt là khoảng vườn nhỏ trồng hoa, sau đó mới tới tường
bao của đền. Chính giữa tường xây tắc môn hình chữ thọ, bên trong đắp núi và 2
con rồng đá, sân đền xây tường hoa, qua sân đền đổ chạt xi măng có chiều dài
10m rộng 9m là đền thờ thần, kiến trúc kiểu chữ đinh, ba gian tiền đường, 2
gian hậu cung.
Hai bên hè đền tạc 2 bia đá xây chìm vào tường đền. Tòa tiền bái
dùng làm nơi tế lễ, bái vọng, kiến trúc gồm 3 gian 2 dĩ, mái lợp ngói nam, bờ
nóc 2 đầu trang trí trụ đấu và rồng chầu. Diềm ngói trang trí bằng gỗ, trạm
khắc chữ triện, chữ thọ, hoa sen. Hai trụ cột hiên viết câu đối, tam cấp làm bằng
đá xanh nguyên khối, hàng cột quân làm bằng đá xanh hình vuông mỗi cạnh 21cm,
kê trên chân tảng đá đường kính 38cm. Đầu đốc liên xây tường liền luôn với 2
bia ghi công đức, cửa đền lui vào hàng chân cột cái, kiến trúc theo kiểu lộn
thềm, tạo thành hiên đền. Lộn thềm làm bằng con tiện, chồng rường, đầu bẩy
trang trí mai, thông, cúc, trúc.
Ra vào tòa tiền bái bằng hệ thống cửa gỗ lim, làm theo kiểu cửa
bức bàn. Tiền bái rộng 4m. Dài 9,9m kiến trúc vì kèo theo kiểu chồng rường cổ
đẳng, các con chồng chạm khắc theo lối triện, hoa văn lá lật.
Thềm giữa (cổ đẳng giữa) làm bằng gỗ lim chạm bong lưỡng long chầu
nguyệt, chữ triện, đại tự khắc gỗ “Lẫm liệt vạn cổ” thềm bên chạm gỗ làm thành
y môn, đằng trước hiên chạm con tiện bằng gỗ
Tiền bái gồm 4 vì kèo, mỗi vì có 2 hàng cột quân, 1 hàng cột cái,
đầu hồi xây đốc, 2 đầu đốc đều có thông phong hình hoa thị.
Tòa tiền bái đặt 1 nhang án lớn mang phong cách nguyện, trang trí
rồng chầu hình yên ngưạ, đao mác, lá hỏa, 1 bát hương đồng khá lớn thờ công
đồng.
Bên tả thờ gia tiên các dòng họ
Bên hữu thờ chân linh các anh hùng liệt sỹ trong thôn
Nguyên vật liệu làm tiền baí: gỗ lim, vôi vữa, gạch thất, ngói
nam, đá khối.
Di tích lịch sử văn hóa là di tích mang dấu ấn tôn giáo, tín
ngưỡng vẫn được bảo tồn nguyên vẹn giá trị nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
cổ, góp phần tôn vinh óc sáng tạo và sự tài hoa của các nghệ nhân xưa.
Di tích không
chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn là những công trình văn hóa tâm linh mang đậm
giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc
* Đền Kính Chúc, là các gọi theo tên địa danh. Di tích nằm trên địa phần thôn Kính Chúc, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
Di tích lịch sử Đền Kính Chúc
Đền đựơc xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định
số 1198/QĐ-UBND ngày 30/12/2022 của UBND
tỉnh Ninh Bình
Từ trung tâm thành phố Ninh Bình theo quốc lộ 1A về phía Hà Nội
khoảng 11km đến ngã ba Gián Khẩu, rẽ trái đi theo đường ĐT 477 (đường 12B cũ)
khoảng 13km đến cầu Đế (địa phận xã Gia Phú), rẽ phải đi theo đê Hoàng Long
khoảng 1,5km là tới di tích đền Kính Chúc (di tích nằm dưới chân đê, phía trước
là sông Bôi)
Đền Kính Chúc là nơi thờ cúng, tưởng niệm cụ Phó đô Uý Lê Trọng
Tiêu, là nhân vật làm quan dưới thời Hậu Lê, người đã có công giúp dân, giúp
nước, được nhân dân thờ cúng và tôn thờ. Tại di tích còn lưu giữ nhiều hiện vật
có giá trị về lịch sử văn hoá. Đền nằm trong không gian văn hoá làng quê đậm
nét.
Đền được xây dựng trên khu đất bằng phẳng, quay hướng tây với tổng
diện tích 480m2, phía Tây giáp chân đê, nhìn ra sông Bôi, ba phía còn lại giáp
khu dân cư. Đền được xây dựng theo kiến trúc hình chữ đinh, gồm hai toà Tiền
đường và Hậu cung, hai toà cách nhau một khoảng sân nhỏ
Tiền đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, dài 13m, rộng 5,2m.
Hậu cung gồm 1 gian chạy dọc, dài 6,05m, rộng 3,08m
Khoảng sân nhỏ nối giữa Tiền đường và Hậu cung dài 7,7mm, rộng
2,2m.
Di tích không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn là những công trình
văn hóa tâm linh mang đậm giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc
Hàng năm, các di tích lịch sử được duy trì các nét sinh hoạt văn
hoá truyền thống và có biện pháp để giữ gìn, bảo quản những hiện vật có giá trị
tại di tích, nhằm giáo dục cho nhân dân địa phương và các thế hệ con cháu tự
hào về truyền thống lịch sử và những giá trị văn hóa của địa phương, góp phần
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, làm phong phú đời sống tinh thần cho
Nhân dân, tạo động lực để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hoàn thành thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Ban VH-TT